Doãn Tử Tư – Wikipedia tiếng Việt
Doãn Tử Tư
Bước tới điều hướng
Bước tới tìm kiếm
Khâm định Việt sử thông giám cương mục
(欽定越史通鑑綱目): Doãn Tử Tư (尹子思) đi sứ sang Nam Tống, vua Tống (Hiếu Tông) phong cho vua Lý (Anh Tông) là An Nam Quốc vương (安南國王) (ngày 30 tháng 9 năm 1164).
Doãn Tử Tư
[1]
(
chữ Hán
: 尹子思) (
Đại Việt sử lược
thì ghi là Doãn Tử Sung), quê làng Cổ Định thị trấn
Nưa
huyện
Triệu Sơn
tỉnh
Thanh Hóa
, là một nhà
ngoại giao
lớn của
Việt Nam
trong buổi đầu xây dựng nền độc lập tự chủ. Ông làm quan
nhà Lý
, dưới triều vua
Lý Anh Tông
, tới chức Trung vệ đại phu. Tháng 9 âm lịch năm Giáp Thân (
1164
) niên hiệu
Chính Long Bảo Ứng
thứ 2, ông được nhà vua cử làm đại sứ dẫn đầu một đoàn sứ bộ gồm có bản thân ông cùng Thừa nghị lang
Lý Bang Chính
(làm Chánh sứ), Trung dực lang
Nguyễn Văn Hiến
(Phó sứ) và đoàn tùy tùng sang thành
Lâm An
Hàng Châu
(kinh đô của
Nam Tống
) để
triều cống
đồng thời khiến vua
nhà Tống
công nhận vua nhà Lý là
An Nam Quốc vương
, và đã thành công. Đây là lần đầu tiên
Hoàng đế
Trung Hoa
công nhận Việt Nam với tên là “
An Nam
quốc
“, thay vì trước đây chỉ xem Việt Nam là “
Giao Chỉ
quận
“, mặc dù Việt Nam (lúc đó có tên là
Đại Việt
) đã độc lập với
Trung Quốc
hơn hai, ba trăm năm trước đó
[2]
[3]
.
Tống sử
viết: “九月甲申。…。乙未,交阯入貢”
[4]
(Tháng 9 âm lịch năm Giáp Thân,…, ngày Ất Mùi (ngày 13 tháng 9 âm lịch năm Giáp Thân tức là ngày
30 tháng 9
năm
1164
[5]
), Giao Chỉ sang triều cống). Tống sử chép tiếp: “隆興二年,
天祚
遣尹子思、鄧碩儼等貢金銀、象齒、香物”
[6]
(Năm Long Hưng thứ 2 (Tống Hiếu Tông), Thiên Tộ (Lý Anh Tông) sai Doãn Tử Tư, Đặng Thạc Nghiễm lần lượt cống vàng bạc, ngà voi, hương vật (trầm hương).)
Tới năm 1173
niên hiệu
Chính Long Bảo Ứng 11, ông lại được cử đi sứ sang Tống một lần nữa đem voi (số lượng là 10 con khác với lần trước) để vua Tống tế Nam Giao.
[7]
[8]
.
Bạn đang xem: Doãn Tử Tư – Wikipedia tiếng Việt
Nhận định về việc đi sứ của Doãn Tử Tư[
sửa
|
sửa mã nguồn
]
Sách
Việt sử tiêu án
của
Ngô Thì Sĩ
soạn năm
1775
có viết về việc đi sứ của Doãn Tử Tư như sau:
- Vua sai Doãn Tử Tư sang thăm nhà Tống đưa cho 15 con voi đã dạy thuần rồi.
Cuối năm
Đại Định
, vua
Cao Tôn
nhà Tống đình việc cống voi, đến
lúc ấy
vua
Hiếu Tôn
mới tức vị, đưa thư sang mua những con voi đã dạy thuần rồi, để rước khi đi tế giao,
vua ta
đưa cho 10 con voi làm lễ mừng tức vị, năm con voi dâng lên để dùng khi đại lễ, làm cái lầu trên lưng voi gọi là La nga (lầu trên lưng voi) và các đồ buộc ở ngà, chân và đầu voi, trang sức bằng vàng bạc, rồi mới đem cho. Tử Tư đi đến quán Hoài Dịch, vua Tống cho dẫn kiến và hỏi han úy lạo. Từ khi nhà Tống phải bỏ
xứ Bắc
qua
sông
sang miền Nam, thì khi sứ thần nước ta có sang chỉ đi đến
Quảng Tây
giao đồ cống, chứ chưa đến kinh đô, đến khi ấy Tử Tư làm Đại sứ chưa bao giờ có đủ 3 sứ thần, đến khi ấy cho Tử Tư làm Đại sứ, Lý Bang Chính làm Chánh sứ, Nguyễn Văn Hiến làm Phó sứ; người theo làm người giới thiệu đều đặt đủ; Vua Tống thấy ở xa mà đến, rất khen là trung thành, lễ tiếp đãi cũng khác hơn, và xuống chiếu gọi tên nước là An Nam quốc, cho ấn bằng vàng. Sử thần bàn rằng: Nước ta từ đời
Hùng Vương
giao thông với Trung Quốc, nhưng còn chưa được có địa vị ở Minh Đường, không được chép vào
sách Xuân Thu
, là khinh vì nước nhỏ. Đến đời
Triệu Đà
ở nhà vàng, xưng Đế,
nhà Hán
phải phong làm Nam Việt Vương, chỉ được ví với Chư hầu ở nội địa, cũng chưa có gì nêu ra là một nước. Sau lại
ngoại thuộc
Hán
và
Đường
, chia nước ra thành quận, huyện. Đến đời
Đinh
,
Lê
thì có đất riêng, mới lập thành một nước, được gia cho chức quan Kiểm hiệu Tam súy, sau tiến lên chức Quận vương; các Vua triều Lý cũng đều như thế. Đến đời vua Anh Tôn một việc bang giao, chu toàn thân mật, sai 3 sứ thần đến quan ải, giữ đủ lễ, làm cho Trung Quốc biết nước đã văn minh, Tử Tư 2 lần đi sứ, tỏ được lòng thành cung thuận, vua Tống phải khen, cho vua ta được là Chân Vương, có quốc hiệu, sau này vẫn làm theo mà không đổi khác được, đó là công vua Anh Tôn, mà Tử Tư cũng đáng là vị sứ thần. Duy có điều để chữ “An” ở trên chữ “Nam”, đó là người Tống có ý ngăn ngừa nước ta. Nay muốn chính danh chỉ gọi là Nam Việt, có lẽ phải chờ đến một vị anh quân.
[9]
Như vậy có thể thấy vai trò sứ thần ngoại giao của Doãn Tử Tư là không nhỏ trong việc xác lập quốc hiệu của Việt Nam. Nhưng cũng phải thấy rằng để đạt được điều này thì đã có hai yếu tố chính quyết định đến thành công của chuyến ngoại giao này, đó là:
- Sự suy yếu của
nhà Tống
- sự lớn mạnh của
Đại Việt
thời
nhà Lý
mà cực thịnh vào các triều vua
Lý Nhân Tông
đến
Lý Anh Tông
.
Tham khảo[
sửa
|
sửa mã nguồn
]
-
^
Đại Việt sử ký
tiền biên, bản kỷ, quyển 4, Lý Anh Tông, trang 291-293.
-
^
“Khâm định Việt sử thông giám cương mục, trang 173 bản dịch tiếng Việt dạng pdf”
(PDF).
Bản gốc
(PDF) lưu trữ ngày 14 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2013.
-
^
Quốc hiệu Việt Nam-sử gia Trần Gia Phụng
-
^
Tống sử, quyển 33, Tống Hiếu Tông.
-
^
“Academia Sinica, Chinese-Western Calendar Converter”
.
Bản gốc
lưu trữ ngày 12 tháng 8 năm 2015. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2015.
-
^
Tống sử, quyển 488, mục Giao chỉ 交阯.
-
^
“Đại Việt sử lược-khuyết danh, trang 76,78”
(PDF).
Bản gốc
(PDF) lưu trữ ngày 11 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2013.
-
^
Biên niên ngoại giao Thăng Long-Hà Nội
[
liên kết hỏng
]
-
^
“Việt sử tiêu án, Ngô Thì Sỹ, trang 61 bản dịch tiếng Việt dạng pdf”
(PDF).
Bản gốc
(PDF) lưu trữ ngày 14 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2013.
Thể loại
:
-
Sơ khai nhân vật Việt Nam
-
Người Thanh Hóa
-
Quan lại nhà Lý
-
Nhà ngoại giao Việt Nam thời Lý
Chuyên mục: Góc truyện